Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2025

CÙNG TRONG MỘT TIẾNG TƠ ĐỒNG.

       Trong chúng ta, chắc không ai không thuộc một hai câu Kiều của Nguyễn Du. Ngày còn ở VN Tb thuộc lầu Truyện Kiều đọc xuôi ngược đều được và cũng từng viết nhiều khúc cảm thấu về Kiều. Từ ngày sang đây, ít dùng tiếng Việt, với lại cũng gần "thất thập cổ" rồi nên bộ nhớ cũng bị rơi vãi nhiều.

      Nay chỉ ngu ngơ kể về những tiếng đàn trong Truyện Kiều "Mua vui cũng được một vài comment"...🥰

Tb với Âm nhạc trong Truyện Kiều.

✍️

Kim Kiều - Tranh của Nguyễn Tư Nghiêm.

    Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu viết "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều...!". Cảm thấu Truyện Kiều ta thấy như Nguyễn Du mượn Kiều để kể về cuộc đời truân chuyên lận đận của chính mình. Để nói lên nhân sinh quan, thẩm mỹ quan của mình, giống như Kiều dù cho "Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần" dù lưu lạc đoạ đầy bao năm vẫn giữ hồn trình nguyên thanh bạch như Sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

        Cuộc đời Kiều đo bằng mười lăm năm lưu lạc, đong đếm bằng tâm trạng bi thương, bằng đầm đìa nước mắt và thổn thức trong tiếng đàn “bạc mệnh” đọan trường!

        Tiếng đàn của Kiều đã vang vọng suốt chiều dài tác phẩm, vào đúng những thời điểm chuyển giao, đánh dấu những bước ngoặt của số phận…

*

       Có đến 9 lần Kiều gảy đàn: lúc tương ngộ, trao duyên cùng Kim Trọng. Lúc Mã Giám Sinh thử tài sắc. Lúc ở lầu xanh. Lúc sống với Thúc Sinh. Lúc Thúc ông tra vấn ép đánh đàn, làm thơ. Lúc làm nô tỳ ở nhà Hoạn Thư. Lúc hầu tiệc vợ chồng Hoạn Thư. Lúc trong tiệc mừng công của Hồ Tôn Hiến và lúc đoàn viên với Kim Trọng.

✍️

        Trong bài viết này mình chỉ kể về 4 lần Kiều đàn hay nhất, thổn thức nhất với đủ các cung bậc cảm xúc.

1- KIỀU KIM TRAO DUYÊN.

“So vần dây vũ dây văn

Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương

Khúc đâu Hán Sở chiến trường,

Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau

Khúc đâu Tư Mã- Phượng Cầu

Nghe ra như oán như sầu phải chăng!

Kê Khang này khúc Quảng Lăng,

Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.

Quá quan này khúc Chiêu Quân,

Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.

Trong như tiếng hạc bay qua,

Đục như tiếng suối mới ra nửa vời

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa“.

       Đây là lần đầu tiên Kiều đàn cho người khác nghe.

       Hẳn đây là khúc “Bạc mệnh” do Kiều soạn lúc tuổi còn cập kê.

  "Khúc nhà tay lựa nên chương 

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân“.

       Trong tiếng đàn ấy có tiếng gươm đao của chiến tranh.

“Khúc đâu Hán Sở chiến trường 

Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau“.

       Khúc đàn bi ai của hồn tử sĩ, của tiếng binh khí va chạm, tiếng nhạc ngựa vang vang…cảnh của bãi chiến trường, cảnh con người tương tàn, sát hại nhau, đau thương tràn ngập.

...

“Khúc đâu Tư Mã- Phượng cầu,

Nghe ra như oán như sầu phải chăng!“

       Khúc đàn ai oán, chan chứa ẩn tình tha thiết giữa Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân.

....

“Kê Khang này khúc Quảng Lăng

Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân“.

       Khúc đàn gợi lên nỗi lòng cảm khái nhớ đất Quảng Lăng của nhà Ngụy mất vào tay nhà Tần, cũng là sự vô thường của sự đời, của phù vân, như nước chảy mây trôi.

...

“Quá quan này khúc Chiêu Quân

Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia“.

     Khúc đàn nức nở của cảnh tử biệt sinh ly, của cõi lòng tê tái, cảnh chia lìa của mối tình Hán Nguyên Đế và Vương Chiêu Quân khi Chiêu Quân qua cửa ải, trên đường triều cống Rợ Hồ.

...

      Bản đàn dạt dào cảm xúc, nhiều cung bậc, réo rắt thanh âm, tiếng đàn uyển chuyển như nước chảy, mây trôi, trong trẻo như tiếng cánh hạc bay qua, ầm ào như thác đổ, như tiếng gió nhẹ, tiếng mưa ào ạt rơi, tiếng binh khí, tiếng nhạc ngựa…

      Trao duyên bằng tiếng đàn ai oán, nức nở, phải chăng là điềm gỡ, là dấu hiệu của cuộc tình buồn, tan vỡ, chia ly...!? Buồn đến nỗi, Kim Trọng-người trong cuộc-nghe tiếng tơ đồng mà lòng dâng đầy cảm xúc:

“Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,

Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.

Khi tựa gối khi cúi đầu,

Khi vò chín khúc khi chau đôi mày”.

Rằng: ” hay thì thật là hay,

“Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!“

✍️

2- HẦU TIỆC Vk Ck Thúc Sinh_Hoạn Thư.

      Sau buổi trao duyên đó, đời Kiều bước vào cơn gió bụi.

      Với thân phận vợ lẽ, Kiều bị mụ Hoạn Thư-con quan Lại Bộ-vợ cả của Thúc Sinh bày mưu hành hạ, đọa đày để thỏa cơn ghen tức lạ đời:

“Làm cho nhìn chẳng được nhau

Làm cho đày đọa, cất đầu chẳng lên!

Làm cho trông thấy nhãn tiền

Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”.

      Kiều bị bắt cóc, bị đánh đập tàn nhẫn và…xung vào đội nô tỳ của nhà họ Hoạn.

Thúc Sinh làm ăn xa, trở về nhà. Buổi gặp lại, bữa hầu tiệc trớ trêu đã diễn ra.

“Tiểu thư cười nói tỉnh say,

Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi

Rằng: “Hoa nô đủ mọi tài,

Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!“

      Và tiếng đàn Kiều:

“Bốn dây như khóc như than

Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!

Cùng trong một tiếng tơ đồng,

Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.“

      Nguyễn Du quả là tài tình khi miêu tả tâm lý và đúc kết tâm trạng của Thúy Kiều, Thúc Sinh (người trong) và Hoạn Thư (người ngoài) một cách tinh tế, cô đọng, đầy tình thương cảm với người trong cuộc.

      Có cảnh nào trớ trêu hơn: vợ-chồng thành chủ-tớ, thành người xa lạ, chẳng dám nhìn mặt nhau. Tiếng đàn của Kiều đã dấy lên điều đó. Tiếng đàn như khóc như than…làm tan nát cõi lòng người trong cuộc.

      Hãy dõi theo tâm trạng Thúc Sinh khi nghe đàn:

“Giọt châu lã chả khôn cầm

Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt tương”

...

“Sinh càng thảm thiết bồi hồi

Vội vàng gượng nói gượng cuời cho qua.”

...

“Sinh thì gan héo ruột đầy

Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng”.

...

      Mộng Liên Đường Chủ nhân (Văn sĩ, đỗ Tú tài năm 1820, thời Minh Mạng) nhận xét: “Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái cái bút lực ấy…“.

✍️

3- ĐÀN HẦU TRONG TIỆC MỪNG CÔNG HỒ TÔN HIẾN. 

      Cơn gió bụi trong cuộc đời Kiều một lần nữa dậy lên.

      Từ Hải nghe lời khuyên của Kiều về hàng quân triều đình để có cuộc sống vinh hoa, an bình, theo lời hứa hẹn của Hồ Tôn Hiến, mà bị phục binh, thất trận, tử vong giữa chốn trận tiền.

      Chưa hết bàng hoàng, đau đớn thất thần giữa đám hỗn quan, hỗn quân trong bữa tiệc mừng công Hồ Tôn Hiến:

“Bắt nàng thị yến dưới màn

Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu“.

      Lúc này tiếng đàn của Kiều mới sầu thảm làm sao:

“Một cung gió thảm mưa sầu,

Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!

Ve ngâm vuợn hót nào tày.”

       Miêu tả tâm trạng như thế quả là tuyệt bút. Quả là đầy tính nhân văn!

*

       Chỉ vì thương xót thân phận chìm nỗi của Kiều, muốn thôi dấy binh để có được cuộc sống yên bình hạnh phúc mà Từ Hải đã phí đi một đời ngang dọc, trả giá bằng cả sinh mạng của mình. Có cay đắng nào hơn khi vợ, vì nhẹ dạ, đã đẩy chồng vào chỗ chết! Bây giờ lại bắt phải gảy đàn mua vui cho kẻ đã chủ mưu giết hại chồng mình! Trái tim rỉ máu vì nỗi thảm sầu, năm đầu ngón tay đánh đàn nhỏ máu vì thân xác cũng đớn đau vô hạn!

     "Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay" Chỉ một câu đây mà lòng thương cảm vô hạn, tưởng ngày ấy những tiếng đẫm máu trên năm đầu ngón tay của Thúy Kiều đều do từ tâm huyết của tác giả mà trào ra đầu ngọn bút.

       Tiếng đàn quá não nùng ai oán khiến Hồ Tôn Hiến, một võ tướng, đang hừng hực khí thế thắng trận, khi nghe đàn:

“Lọt tai Hồ cũng nhăn mày châu rơi

Hỏi rằng: “này khúc ở đâu?

Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!”

(Thưa rằng Bạc mệnh khúc này/Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ).

...

        Mộng Liên Đường Chủ nhân viết: “Khúc đàn Bạc mệnh gảy xong mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu người đời xa khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải“.

✍️

4- KIM KIỀU TÁI HỢP.

      "Đoạn trường rồi cũng qua thôi

 Câu thơ về lại với người trí âm" (Thơ Tb)

       Mười lăm năm lưu lạc, thân phận như sóng vỗ bèo trôi rồi cũng đến lúc sum vầy, khổ tận cam lai. Kim Trọng và Thúy Kiều khi gặp lại:

“Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa

Những từ sen ngó đào tơ,

Mười lăm năm mới bây giờ là đây"...

 ... ... ....

“Tình xưa lai láng khôn hàn

Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa”.

       Sau những năm tháng đoạn trường, lòng người cũng cạn nên lúc này tiếng đàn của Kiều đã chùng xuống dịu êm hơn không còn sóng vỡ khi mà cảm xúc cũng già theo năm tháng.

“Khúc đâu đầm ấm dương hòa

Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh

Khúc đâu êm ái xuân tình

Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên?

Trong sao châu nhỏ duyền quyên

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông“.

       Đây là lần cuối cùng Thúy Kiều đánh đàn. Cũng bởi vì tiếng đàn “Bạc mệnh” đã đeo đẳng số phận lênh đênh của Kiều suốt mười lăm năm, tiếng đàn đã vận vào tình yêu tan vỡ, ly biệt của Kiều và Kim Trọng…Và, chỉ một lần này nữa thôi, dành cho người tri kỷ, người bạn tình chung:

“Một phen tri kỷ cùng nhau

Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa“.

      Tuy vẫn là bản đàn “Bạc mệnh” ấy song giờ đây, bằng tình xưa lai láng; bằng niềm hân hoan vì “gương vỡ lại lành”, trái tim Kiều rung lên khúc đàn tình ái, tưởng như còn trong miền ký ức, nửa thực nửa mộng…Khúc đàn trở nên đầm ấm, êm ái xuân tình; âm thanh trong trẻo, ấm áp vô cùng…đến nỗi Kim Trọng, người tình xưa, nghe tiếng đàn cũng cảm thấy khác lạ:

“Chàng rằng: “Phổ ấy tay nào

Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?“.

      Bốn lần gảy đàn kể trên đều là bốn lần không do Kiều tự nguyện! Cùng là một bản đàn nhưng Nguyễn Du miêu tả bốn lần đều mang sắc thái, thanh âm khác nhau…cách thể hiện lại tinh tế, sinh động trạng thái tâm lý, chuyển biến tình cảm của “người trong cuộc” một cách tài tình. Có thể nói, tiếng đàn nhiều cung bậc, đầy tâm trạng ấy đã tác động mãnh liệt đến tâm tư, tình cảm người nghe đến tận cùng.

        Dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Du, thông qua tiếng đàn của Thuý Kiều, thế giới tình cảm tinh tế của các nhân vật: Kim Trọng, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến…và nhất là Thúy Kiều được cụ thể hóa một cách sinh động, đặc sắc. Tả hoạt động để chuyên chở tâm trạng, tình cảm; từ tâm trạng, tình cảm hiện lên đầy đủ bản sắc, tâm hồn, tính cách nhân vật- Bản thể con người.

       Điều cuối cùng, qua tiếng đàn của Thúy Kiều, người đọc cảm nhận sức mạnh vô biên của âm nhạc. Tiếng tơ đồng cũng chính là tiếng lòng, là nhịp đập đầy bất trắc của con tim trước cuộc đời biến động, trao đến con tim người nghe những cung bậc đầy ắp tâm tình.

       Và, chính ngòi bút Nguyễn Du mới làm nên điều kỳ diệu đó. Các bạn yêu thơ nói chung, yêu Truyện Kiều nói riêng có đồng cảm với Tb vậy không...!?

      Khi nào rảnh Tb lại tán Kiều ở một cung bậc khác hầu các bạn nhé🥰...

✍️




Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

MỘT CÂU THƠ ĐẮT TRONG TRUYỆN KIỀU

         Người Việt nam không mấy ai là không thuộc một đôi câu Kiều. Không mấy ai không biết đến mối tình Kim Kiều.
     Yêu nhau, rồi xa nhau mười mấy năm trường. Dù âu duyên mới nhưng Kim vẫn mỏi mòn nhớ Kiều. Ôi ! Nỗi nhớ trong tình yêu mới đẹp làm sao, mới tuyệt vời làm sao. Người ta bảo tình yêu như thuốc phiện ấy. Thuốc phiện dẫu nghiện còn bỏ được Nhưng phụ nữ thì chả người đàn ông nào bỏ được. Huống hồ chàng Kim tương tư Kiều đến mức “Ba thu dồn lại một ngày lê thê”. Mới gặp thôi mà đã Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng. Và dù khi "Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng", nhưng với chàng Kim:
“Tuy rằng vui chữ vu quy
Vui này đã cất sầu kia được nào
Khi ăn ở, lúc ra vào,
Càng âu duyên mới càng đào tình xưa
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng
Có khi vắng vẻ thư phòng
Đốt lò hương, giở phím đồng ngày xưa
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ
Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm
Dường như bên nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng
Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.
Những là phiền muộn đêm ngày,
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần ?...”
           Nỗi nhớ và tình yêu khôn nguôi đã thôi thúc Chàng đi tìm Nàng. Và chàng đã tìm được nàng
Một nhà về tới quan nha,
Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy
Tàng tàng chén cúc dở say,
Đứng lên Vân mới giãi bầy một hai.
Rằng: “Trong tác hợp cơ trời
“Hai bên gặp gỡ một lời kết giao
“Gặp cơn bình địa ba đào
“Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em
“Cũng là phận cải duyên kim
“Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao ?
“Những là rày ước mai ao
“Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình !
“Bây giờ gương vỡ lại lành
“Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi
“Còn duyên may lại còn người
“Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa
“Qủa mai ba ẩy đương vừa
“Đào non sớm liệu se tơ kịp thì !”.
Dứt lời nàng vội gạt đi
“Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ ?
“Một lời tuy có ước xưa
“Xét mình dãi gió dầm mưa đã nhiều”
“Nói càng hổ thẹn trăm chiều
“Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi !”
          Khi bình đoạn này, thì ai nhìn nhận ra câu “Tàng tàng chén cúc dở say” là câu tinh tế và đắt nhất trong khổ thơ trên của cụ Nguyễn Du thì mới là sâu, mới ăn điểm của giám thị. Tại sao lại là tinh tế nhất ?. Tại sao em Vân phải mượn rượu dở say để giãi bày. Mà không phải là say quắc cần câu đâu nhé, tí ti men thôi, tàng tàng thôi, còn tỉnh chán.
          Bởi vì nếu không để Kim Kiều tái hợp trong kiếp phu thê thì không thành Truyện Kiều nữa. Mà để em Vân tự dưng đẩy chồng mình cho chị Kiều thì nghe nó phô nó gượng quá. Trên đời này chả có người đàn bà nào tự nhiên và thỏa mái vô tư dâng chồng mình cho người khác cả, cho dù có là ruột thịt đi chăng nữa. Các cụ chả từng xỉ vả rằng:             Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
 Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” đó thôi
    Thế nên Cụ Nguyễn Du mới để em Vân “tàng tàng dở say”. Ừ thì cô ấy say, cô ấy ấy có chút men nên hơi bốc đồng thế thì nó hợp hơn. Cụ đọc tâm lý mới tinh tế và kín kẽ làm sao. Câu thơ ấy đắt cũng phải thôi.
     Còn trong Truyện Kiều đắt nhất phải là câu:
"Thương thay một đóa Trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về..."
      Đây mới là câu  đắt nhất trong 3.254 câu Kiều. Nó đắt nhất bởi vì cái hình ảnh của cả cái đêm tân hôn, cả quá trình Con gái sang thì Đàn bà được hiển hiện đầy đủ nhất chỉ trong một câu lục bát. 
      Ngẫm Kiều xong thì đóng blog cũng phải. Vì bao nhiêu cái hay của con chữ nó ở trong Truyện Kiều hết cả rồi. Thành ra mình có muốn viết thì con chữ nó cũng chẳng ra hồn, đành thôi.
✍️





Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2013

MẠI DÂM TRONG TRUYỆN KIỀU: AI BẢO NGƯỜI XƯA KHÔNG ĐÁNH ĐĨ NÀO ?

   Này con thuộc lấy làm lòng "Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề"
     Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, có đoạn Tú Bà dạy đệ tử thế này:
Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,
Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều .
Nàng rằng: Mưa gió dập dìu,
Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!
Mụ rằng: Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến đây ?
ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy nằm lòng,
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.
Chơi cho liễu chán, hoa chê,
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.
Khi khóe hạnh, khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.
Điều là nghề nghiệp trong nhà,
Đủ ngần ấy nết, mới là người soi.
Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.

Thì "bảy chữ" là 7 chiêu:
1. Khấp: khóc tỉ tê làm cho khách xúc động thương xót.
2. Tiện: giả cắt tóc thề nguyền để khách tin.
3. Thích: viết tên khách vào tay mình giả ý thương yêu.
4. Thiêu: đốt hương thề nguyền với khách
5. Giá: hẹn hò lấy khách làm chồng, giả xin làm vợ lẽ
6. Tẩu: rủ khách đi trốn giả như giữ lòng chung thuỷ
7. Tử: giả liều chết để khách khuyên ngăn.

Diễn giải:

1. Khấp: tức là khóc giả bộ thương yêu, quyến luyến khách không muốn rời.
2. Tiện: cắt của mình một ít tóc và của khách một ít, trộn chung lại rồi chia hai, mỗi người buộc vào cánh tay để tỏ ý muốn kết tóc se tơ.
3. Thích: dùng mực xạ xăm
 tên người khách vào bắp tay hoặc bắp đùi mình để khách trông thấy cho là mình chung tình .
4. Thiêu: đốt hương giả bộ thề nguyền rồi chích vào tay mình và tay khách để tỏ dạ chung tình. Có sáu vị trí để thiêu :
5. Giá: hứa lấy khách làm chồng, giả đò thề hẹn, bàn cách lấy nhau.
6. Tẩu: rủ khách cùng đi trốn. Khi khách chơi đã hết tiền nhưng còn quyến luyến mình không nỡ rời, phải giả cách rủ khách cùng đi trốn, đó là một cách "tống cổ" khách êm thắm.
7. Tử: đòi chết để tỏ ra chung tình với khách .

Còn "tám nghề" là 8 cách như sau:

1. Tiếp người nhỏ bé thì dùng cách "kích cổ thôi hoa"
2. Tiếp người to béo thì dùng cách "Kim liên song toả"
3. Tiếp người nóng vội thì dùng cách "đại xiển kỳ cổ"
4. Tiếp người chậm chạp thì dùng cách "mạn đả khinh khao"
5. Tiếp người mới thì dùng cách "khẩn khuyên tam trật"
6. Tiếp người thạo đời thì dùng cách "tả trì hữu trì"
7. Tiếp người si tình thì dùng cách "toả tâm truy hồn"
8. Tiếp người lạnh lùng thì dùng cách "nhiếp thần nhiệm toả"
 
Diễn giải:
 
- Đối với người có đồ "hấp diêm"(*) ... bé, ngắn thì dùng phép "đánh trống giục hoa"
- Đối với người có ... to, dài thì dùng phép "sen vàng khóa xiết"
- Đối với người tính nhanh thì dùng phép "mở cờ đánh trống"
- Đối với người tính khoan thì dùng phép "đánh chậm gõ sẽ"
- Đối với người mới "vỡ lòng" thì dùng phép "ba bậc đổi thế"
- Đối với người không dai sức thì dùng phép "đỡ dần buộc chặt"
- Đối với người dai sức thì dùng phép "gắn bó truy hồn"
- Đối với người mê sắc thì dùng phép "dềnh dàng cướp vía".


      Rảnh thì nghĩ hầm bà lằng vậy thôi, Nhờ quý dzị kiểm tra xem mấy em thời nay có thuộc bài không hay phát triển gì mới thì bổ sung nha. 
  
      Vừa gõ đến đây thì vợ tay thợ kèn đám ma nhắc chồng: 
- Này mình ơi ! Lát nữa còn thổi kèn nữa đấy nhé.
✍️
     (*) Đọc ngược thì hiểu.


Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013

VẦNG TRĂNG AI XẺ LÀM ĐÔI



 Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau nét mày
Rằng “Hay thì thật là hay”
“Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào…”
“Lựa chi những khúc tiêu tao,”
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người…?”

Tháng giêng là tháng ăn chơi
             Nhớ Kiều lại ngẫm những lời xưa nay 
                 “Chữ trinh còn một chút này”
            “Chẳng cầm cho vững lại dày cho tan.”
                  Tháng giêng rủ nguyệt du xuân
            Cô đầu lúng liếng hóa thân ngâm kiều…
                 Bà Lão vui tính của bọn nhóc.






Thứ Ba, 8 tháng 1, 2013

YÊU NHƯ KIỀU

Khi sao phong gấm rủ là - Giờ sao tan tác như hoa giữa đường...


          “Thượng đế đã lỡ tiếc khi tạo ra người Đàn ông, nhưng không bao giờ tiếc khi tạo ra người Đàn bà. Bởi người đà bà có cái sâu thẳm của tình thương. Nếu thiếu người Đàn bà cõi đời như đắm chìm trong đêm tối lạnh lùng…”- Thế nên “Mọi gã Đàn ông kể cả những kẻ độc thân và gan lỳ nhất bao giờ cũng giấu trong tim hình ảnh của một Thiếu nữ”.
          

        Có lẽ trong chúng ta không mấy ai không biết truyện Kiều, một thiên tình sử. Cứ bảo phụ nữ bây giờ hiện đại và tân tiến. Nhưng xét về góc độ yêu tôi vẫn thấy Kiều hơn các vị bây giờ nhiều, dù thời đại của nàng cách chúng ta hơn 150 năm nay rồi.