Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2015

CHUYỆN ÍT BIẾT VỀ CA KHÚC DIỄM XƯA.

        “Diễm xưa” (sáng tác năm 1960) là một trong những sáng tác nổi tiếng nhất giữa kho tàng hàng trăm bản tình ca làm say lòng bao thế hệ khán giả mộ điệu của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
       Ca khúc được vị nhạc sĩ tài hoa lấy cảm hứng từ tình yêu lặng thầm dành cho “nàng thơ” Ngô Vũ Bích Diễm, một cô gái Hà Nội theo gia đình vào Huế sinh sống đã khiến trái tim ông lỗi nhịp thời tuổi trẻ.
Tb với nhạc Trịnh.
✍️
Trịnh Công Sơn & Khánh Ly những ngày hát Diễm xưa.

         Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến Trường Đại học Văn khoa ở Huế.

       Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi qua dưới những vòm cây long não. Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua. Những mùa nắng, ve râm ran mở ra khúc hát mùa hè trong lá. Mùa mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhạt nhòa trong mưa giữa hai hàng cây long não mờ mịt...

       Nhà cô ấy ở bên kia sông, mỗi ngày phải băng qua một cây cầu rồi mới gặp hàng long não để đến trường.

       Từ ban công nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi đi về về mỗi ngày bốn bận. Thời buổi ấy những người con gái Huế chưa hề dùng đến phương tiện có máy nổ và có tốc độ chóng mặt như bây giờ. Trừ những người ở quá xa phải đi xe đạp, còn lại đa số cứ đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng cung. Đi để được ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng, mình là một nhan sắc. Nhan sắc cho nhiều người hoặc chỉ cho một người thì có quan trọng gì đâu. Những bước chân ấy từ mọi phía đổ về những ngôi trường với những cái tên quen thuộc, đôi khi lại quá cũ kỹ.

       Đi để được những con mắt chung quanh nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước và hoa lá thiên nhiên. Long não, bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một dòng sông Hương chảy quanh thành phố đã phả vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói lãng mạn thanh khiết. Huế nhờ vậy không bao giờ cạn nguồn thi hứng. Thành cổ, đền đài, lăng tẩm khiến con người dễ có một hoài niệm man mác về quá khứ hơn và một phần nào cũng cứu rỗi cho con người ta khỏi vành đai tục lụy. Và từ đó Huế đã hình thành cho riêng mình một không gian riêng, một thế giới riêng. Từ đó con người bỗng đâm ra mơ mộng và ước mơ những cõi trời đất như không có thực.

        Nhưng thật sự thực và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia. Và với những ảo ảnh đó đã có một thời, khá dài lâu, những con người lớn lên trong thành phố nhỏ nhắn đó đã dệt gấm thiêu hoa những giấc mơ, giấc mộng của mình. Đó cũng là thời gian mà mỗi sớm tinh mơ, mỗi chiều, mỗi tối, tiếng chuông Linh Mụ vang xa trong không gian, chuyền đi trên dòng sông để đến với từng căn nhà khép hờ hay đang đóng kín cửa.

       Thời gian trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người không còn cảm giác về thời gian. Một thứ thời gian không bóng hình, không màu sắc. Chỉ có cái chết của những người già, vào mùa đông giá rét, mới làm sực tỉnh và bỗng chốc nhận ra tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những vùng đồi núi chung quanh.

        Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường. Đi đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một nơi vô định. Định hướng mà không định hướng bởi vì những bước chân ngày nào ấy dường như đang phiêu bồng trên một đám mây hoang lạc của giấc mơ.

        Người con gái ấy đã đi qua một cây cầu bắc qua một dòng sông, qua những hàng long não, qua những mùa mưa nắng khắc nghiệt, để cuối cùng đến một nơi hò hẹn. Hò hẹn nhưng không hứa hẹn một điều gì. Bởi vì trong không gian liêu trai ấy hứa hẹn chỉ là một điều hoang đường. Giấc mơ liêu trai nào cũng sẽ không có thực và sẽ biến mất đi.

       Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ đã ở một nơi xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm nào cũng đáng nhớ nhưng cứ phải quên. Người con gái ấy là Diễm của những ngày xưa.
     (Diễm của những ngày xưa – Trịnh Công Sơn)
✍️

         Mặc dù đã từng được nhiều ca sĩ nổi tiếng trong nước và hải ngoại thể hiện nhưng "Diễm xưa" cũng như rất nhiều bản nhạc Trịnh khác chỉ thực sự đi vào lòng người qua giọng hát của danh ca Khánh Ly và được bà thu âm và chính thức phát hành trên thị trường trong nước qua băng nhạc "Sơn Ca 7" vào năm 1974.
Ca khúc "Diễm xưa" của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là một trong những ca khúc góp phần làm nên tên tuổi của danh ca Khánh Ly.

         Trước đó, vào năm 1970, Khánh Ly được hãng đĩa Myrica Music mời sang Tokyo để thu âm 2 ca khúc "Diễm xưa" và "Ca dao mẹ" bằng cả 2 ngôn ngữ Việt - Nhật. Cũng trong năm đó, bà đã trình diễn ca khúc "Diễm xưa" bằng tiếng Nhật với tên gọi "Utsukushii Mukashi" trước hàng trăm nghìn khán giả tại Hội chợ quốc tế Osaka. Không lâu sau đó, hãng đĩa Nippon Columbia đã phát hành các phiên bản tiếng Nhật của ca khúc này cùng một số ca khúc khác của Trịnh Công Sơn ở “xứ sở hoa anh đào”.

         Vào năm 1978, ca khúc "Diễm xưa" phiên bản tiếng Nhật đã được đài truyền hình lớn nhất Nhật Bản NHK chọn làm nhạc phẩm chính cho Sài Gòn Kara Kita Tsuma To Musuko, một bộ phim nhiều kỳ nói về những khác biệt văn hóa trong gia đình của một người đàn ông Nhật lấy vợ Việt Nam dựa trên cuốn sách do ký giả Kondo Koichi viết về câu chuyện chính gia đình ông.

         Sau đó, Tendo Yoshimi - nữ danh ca hàng đầu Nhật Bản ở thể loại enka (nhạc dân gian) cũng đã thể hiện lại ca khúc này. Vào tháng 8/2002, Tendo cũng đã đặt chân đến Việt Nam, mặc áo dài và hát "Diễm xưa" phiên bản tiếng Nhật để ghi hình cho một chương trình của đài NHK.

         Đến tháng 9/2003, cũng chính Tendo thu âm ca khúc và chính thức phát hành ca khúc "Diễm xưa" phiên bản tiếng Nhật với tên gọi "Utsukushii Mukashi" tại thị trường Nhật Bản.

         Nhưng bất ngờ hơn, "Diễm xưa" phiên bản tiếng Nhật qua giọng hát Tendo sau đó đã được đưa vào chương trình giáo dục bậc đại học của Nhật Bản và lọt top 10 bài hát hay nhất mọi thời đại của "xứ sở hoa anh đào".
Diễm xưa - Phiên bản tiếng Nhật.

✍️







MƯA TRÊN BIỂN VẮNG và BÍ MẬT MỘT NHẠC PHẨM GẦN 50 NĂM QUA.

         Nhạc phẩm "Mưa trên biển vắng" nổi tiếng những năm 90 sau khi nhạc sĩ Nhật Ngân đặt lời Việt thứ hai qua tiếng hát của cố Ca sĩ Ngọc Lan & đôi song ca Ngọc Lan - Lâm Thuý Vân (ns Phạm Duy là người đầu tiên chuyển ngữ từ tiếng Pháp & đặt tựa đề là "Nhớ anh mà thôi" nhưng không mấy tiếng tăm...). Cả hai lần chuyển ngữ nêu trên đều dựa trên nguyên tác nhạc phẩm Je n'pourrai jamais t'oublier (Em sẽ chẳng bao giờ có thể quên anh) thế nhưng, ly kỳ thay ! Cũng như nhạc phẩm "Triệu bông Hồng" cả một thời gian hằng mấy chục năm chúng ta chỉ biết rằng đó là ca khúc của Liên Xô... và tác giả là người Nga cho đến mãi sau này mới biết tác giả đích thực lại là người Litva một nước CH thuộc LX cũ.... Trường hợp nhạc phẩm này cũng vậy,cả hai ns người Việt & cả chúng ta nữa bấy lâu nay vẫn ngỡ rằng đây là một trong những ca khúc Pháp lời Việt có giai điệu cũng như ca từ thật dịu êm mà cũng rất đượm buồn, những giai điệu ấy cứ như tráng lên con tim những dòng lệ tuôn trào bởi câu chuyện không thành của tình yêu đôi lứa... Thế nhưng, ngay cả ca từ bằng tiếng Pháp cách nay đúng 45 năm lại chỉ là một phiên bản được phóng tác từ giai điệu nguyên tác của nhạc sĩ trẻ người Bulgaria ông Emil Dimitrov (Емил Димитров 1940-2005). Nguyên tác bằng tiếng Bul có tựa đề "Не ще мога да те забравя"- Tức "Em sẽ chẳng bao giờ có thể quên anh"...

*****
   
 "Nguyên mẫu" của bài hát lời Việt MƯA TRÊN BIỂN VẮNG...

         Một sáng đầu thu năm 1968 những hồi chuông điện thoại ngân dài trong phòng làm việc của ông Hristo Kutev người Bulgaria, bấy giờ là một tị nạn chính trị sống ở thủ đô Paris. Ông là người sáng lập nên "Trường quốc tế nghệ thuật sân khấu" (Acade'mie Internationale Des Arts) là một người khá quen thuộc & nổi tiếng trong làng giải trí (Showbiz) tại Pháp... qua điện thoại, ông nhận được lời đề nghị tới sứ quán Bul để gặp một người tự giới thiệu tên là Vassil Andreev "quản lý" của ca sĩ kiêm tác giả trẻ tuổi: Emil Dimitrov. Do hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ, ông không đồng ý tới sứ quán mà hẹn gặp hai người ở quán cà phê Le Royal-đường Grenelle-quận 7-Paris. Tại cuộc gặp giữa những người đồng hương, họ nhanh chóng tìm được sự tin cậy & sự thoải mái vốn có của người nghệ sĩ... Emil Dimitrov muốn thông qua sự giúp đỡ,giới thiệu của ông để có thể hợp tác với giới nghệ thuật Pháp... Nhờ sự gửi gắm của Kutev,ngay cuối năm 1968 Emil Dimitrov đã bắt đầu xuất hiện trong các Show ca nhạc trên kênh truyền hình giải trí của Pháp, đồng thời làm việc cho nhóm sáng tác của ông Léo Misir giám đốc nghệ thuật của hãng đĩa Barclay. Trong nhóm còn có sự hiện diện của nữ ca sĩ kiêm tác gia gốc Italia Patricia Carli người từng đoạt giải nhất liên hoan ca nhạc tại thành phố San Remo với ca khúc nổi tiếng một thời: Em thuộc về anh (Je Suis à Toi) tuy nhiên, tự biết khả năng của mình khó có thể trở thành ca sĩ hạng A, sau đó Patricia chuyển hướng sự nghiệp sang viết ca khúc cho những ca sĩ cùng thời như Davis Alexandre Winter (là cha của ca sĩ Ophe'lie Winter sau này) hay ca sĩ Dalida,Claude Francois v.v... Do cả hai từng là ca sĩ, nên quan hệ công việc giữa Emil & Patricia khá suông sẻ, tâm đầu ý hợp... họ đủ kinh nghiệm thực tế để hiểu được đâu là thế mạnh, điểm yếu của từng giọng hát mà họ "gửi gắm" những đứa con tinh thần của mình & qua đó đã góp phần tạo nên tên tuổi cho những ca sĩ đã thể hiện thành công nhất tác phẩm của họ, ví dụ như nhạc phẩm La Tendresse đã làm tên tuổi ca sĩ Daniel Guichard nhanh chóng trở nên nổi tiếng... Những năm cuối thập kỷ 60, tài năng cũng như sự nổi tiếng của nữ ca sĩ Nicoletta đang ở thời kỳ rực rỡ nhất & cô cũng là một trong những nữ ca sĩ đầu tiên ký hợp đồng độc quyền có thời hạn 10 năm với hãng đĩa danh tiếng Barclay & liên tục phá kỷ lục về số lượng đĩa phát hành bán chạy nhất.Patricia Carli & nhóm của bà được hãng giao trách nhiệm soạn nguyên một chương trình độc quyền cho Album của Nicoletta.

               Để đủ số lượng bài hát trong một khoảng thời gian khá ngắn, ngoài những sáng tác mới, nhóm quyết định dựa vào những giai điệu của những nhạc phẩm được sáng tác trước đó của người đồng nghiệp Emil Dimitrov để Patricia viết thêm lời bằng tiếng Pháp & một trong số đó chính là nhạc phẩm "EM SẼ CHẲNG BAO GIỜ CÓ THỂ QUÊN ANH" (Не ще мога да те забравя/Je n'pourrai Jamais t'oublier)

                              

         Bản đĩa được ghi âm vào đầu năm 1970 tại Pháp & sau đó cũng được hãng đĩa Balcanton (Bulgaria) phát hành, có một điều hơi lạ là bản thân Emil Dimitrov rất nổi tiếng ở trong nước, nhưng ngay tại quê hương ông thì hầu như mọi người chỉ biết đến ông với vai trò là một ca sĩ, còn ở vai trò nhạc sĩ sáng tác thì dường như họ ít chú ý, ngay cả trên báo cũng như các tạp chí thường chỉ ca ngợi tài năng, giọng hát của ông, thậm chí như thể.. .thánh sống. Họ ví ông như là một "Sinatra của phương Đông" (tức Đông Âu). Quả thật những nhạc phẩm nổi tiếng như "Đất nước tôi - Bulgaria của tôi" hay "Lá thư gửi Mẹ" v.v... thì sau nhiều năm đã qua, chưa có một ca sĩ nào thể hiện được như ông, nghe ông thể hiện những nhạc phẩm này ta cảm nhận không phải ông hát mà là những lời tự sự từ trái tim thổn thức những cung bậc của cảm xúc không thể diễn tả bằng lời,nghe ông tự sự ta chỉ có thể để mặc cho những giọt lệ ứa ra, ứa ra cho đến khi giai điệu ấy ngừng hẳn...

         Trở lại nhạc phẩm "giai điệu Bul-lời Pháp" khi mới được phát hành, do chỉ được in ở "mặt B" nên không gây được sự chú ý dù đã được ca sĩ Nicoletta thể hiện khá thành công, cho đến đầu năm 1980 tức 10 năm sau ngày phát hành đầu tiên khi dàn nhạc hoà tấu Paul Mauriat & dàn nhạc Raymond Lefevre đưa vào chương trình nhạc không lời thì lại lập tức trở nên nổi tiếng, người ta đổ sô đi tìm mua lại đĩa cũ phát hành từ thập kỷ 70 & đĩa đầu tiên ghi âm năm 70 có lúc trở thành...vô giá...

         Ở Việt Nam nhạc phẩm này đã được "Việt hoá" hai lần,nhưng phải đến năm 1991 khi tác giả Nhật Ngân đặt lời Việt với tên bài hát là "MƯA TRÊN BIỂN VẮNG" thì mới trở nên nổi tiếng...
✍️








Thứ Hai, 2 tháng 11, 2015

MÙA NƯỚC NỔI và MỘT GÓC TÂM HỒN VIỆT.

Viết cho cô Tám (Blog Có khi nào...)

         Nghe em kể về những món ăn mang đậm chất Nam Bộ, nghe vị chát và đăng đắng của mùi lá non sầu đâu, mùi thơm dìu dặt rất riêng biệt của sầu riêng và những miệt vườn xa tít tắp vùng nước nổi, nghe tên đọt choại lại thèm lẩu mắm cá kèo, lại nhớ tiếng giã bàng đêm đêm để đan đệm… tôi thấy yêu vùng miền Tây đến lạ kỳ. Tôi sẽ còn về để ăn những món nướng cắm đứng trên que, những món ăn gói trên những tàu lá chuối xanh mơn mởn, nghe hát những câu ca tài tử quyện chặt đến mê hồn, nghe giọng Nam Bộ với “thịt” và “mắc cười” ở nơi em !

         Nhắc đến sông nước miền Tây là người ta nhớ đến bài hát “Con kênh xanh xanh” của tác giả Ngô Huỳnh. Bài ca mang một giai điệu truyền thống về tinh thần lạc quan yêu đời của người dân nơi đây. “Con kênh xanh xanh những chiều êm ả lướt trôi/ Đêm đêm trăng lên theo dòng buồm căng gió xuôi/ Con kênh xanh xanh những mùa sen nở khắp nơi/ Bao câu tơ duyên dạt dào tình ai thắm tươi/ Thuyền ai lướt qua hàng chuối với bờ kênh/ Thuyền ai lướt qua bông lúa thướt tha/ Tiếng ai hò khoan vẳng đưa những câu tình ca/ Ngả nghiêng hàng tràm vang hòa tiếng hò xa xa”...


   Con kênh xanh xanh. Nhạc và lời: Ngô Huỳnh.
Trình bầy: Ái Vân và Phương Nhung.

         Nhiều khán giả miền Bắc, khi nghe đến câu hát: "Chiến khu bừng vui ấm bao lòng dân quê tôi/ Tiếng ai giã bàng nhịp nhàng như tiếng lòng tôi" hẳn sẽ băn khoăn không hiểu giã bàng để làm gì, và tại sao phải giã ? Với người dân ở vùng Đồng Tháp Mười thì điều này quá quen thuộc: Bàng ở đây không phải là loại cây hay được trồng ở các sân trường để lấy bóng mát. Ca dao Đồng Tháp Mười có câu: "Bông xanh mà lá cũng xanh/ Em đi cấy lúa cho anh nhổ bàng". Bàng ở đây là loại cây thân cỏ. Cỏ bàng cao khoảng hơn 2 mét, thân tròn dạng ống, to như que đũa. Người dân sau khi cắt cỏ bàng về, họ phải qua nhiều công đoạn sơ chế (như giã dập bằng chày tay rồi phơi khô) để đan đệm. Cũng tựa như dân Kim Sơn Ninh Bình đập cói dệt chiếu.

          Còn về đọt choại có người gọi nó là đọt chạy là bởi nó như tay mướp, bò đến đâu ra rễ đến đó nên người ta gọi nó là rau chạy. Đọt choại về vùng Kiên Giang hay Cà Mau mới nhiều, người dân nơi đây gọi là dây choại, choại leo bám như rừng. Dây choại lúc mới non mỡn mầu nâu đất chứ không xanh mướt. Đọt choại hơi giống rau đắng hay còn gọi là rau Bò đái (Một loại đặc sản của miền núi Cao Bằng và Lạng Sơn) ăn cũng có vị hơi đắng, không biết cách chế biến thì nó có mùi hăng hơi khai khai nhưng vị cũng rất đặc trưng bùi và mềm chứ không gòn. Đọt choại ăn ban đầu nhớt như rau đay hay rau mồng tơi, lại hơi đăng đắng, nhưng sau thì ngọt chết thôi. Ngoài này bây giờ cũng có lẩu mắm cá kèo, nhưng thường ăn với rau muống hay ngọn su su, cải đắng… (Cá kèo trong vùng Đồng Tháp Mười cũng là con cá bống ngoài Bắc, có điều con cá kèo trong đó nó nhỏ hơn chút xíu, mềm hơn chút xíu và có mầu hơi xanh, còn cá bống ngoài Bắc cứng mình và mầu hồng nhạt) Tôi đảm bảo ăn lẩu mắm cá kèo với đọt choại là đúng vị nhất vì nó rất đặc trưng hơi đắng nhưng ngọt và giòn tan. Ăn lựt xựt sướng lắm. Trước Hà Nội cũng có một nhà hàng Lẩu mắm cá kèo với đọt choại khá nổi tiếng. Khách muốn ăn phải đặt trước. Sau vì đọt choại không bảo quản được lâu nên Nhà hàng chuyển sang bán Lẩu lòng, cũng độc đáo. Quán nằm ngay đầu dốc Yên Phụ đối diện gốc đa Yên Phụ.

         Mình bạn bè nhiều nên hay phải đi tiếp, phải lòng cô giáo viên Đồng Tháp nên thích cá lóc nướng đứng của miền Tây. Hè vừa rồi chỉ vào đến Sài gòn chứ không theo cùng các bạn xuôi sông nước Miền Tây nên cô ấy trách mãi. Một phần chưa phải mùa nước nổi, một phần cũng vì bận quá không đi được, đành hẹn cô ấy mùa nước nổi sang năm.
✍️